Chiều nay, trên đường về nhà, giữa những cơn gió tháng 3 hanh hao, từ phía công viên thành phố phía xa xa, tôi chợt nhìn thấy những cánh diều đủ màu sắc đang được lũ trẻ cùng ba mẹ thả lên. Giật mình, thì ra mùa chơi diều đã đến. Bất chợt mỉm cười và nghĩ về những cánh diều tuổi thơ năm nào…
Nhớ nhưng ngày năm cũ, khi những cánh đồng sau mùa gặt chỉ còn trơ gốc rạ thì đám trẻ bọn tôi cũng bắt đầu làm diều để thả. Chúng tôi gọi đó là những mùa diều. Mùa thả diều của bọn tôi xưa kia, thường chỉ kéo dài từ tháng ba và khi mùa mưa thật sự đến vào khoảng tháng sáu, tháng bảy thì chấm dứt.
Ngày đó, để làm được một con diều, công việc đầu tiên của chúng tôi là chọn những thanh tre cật già, đẹp, và sau đó đem vót cho mảnh nhưng vẫn đảm bảo có thể giữ đủ độ chịu lực khi căng gió. Khi xong “khung sườn”, kế đến là khâu cắt giấy để dán cho con diều được đẹp. Ngày xưa, chỉ toàn là giấy báo cũ, giấy vỏ bao xi măng, hoặc họa chăng là giấy vở học trò , nhưng đều “đen sì” chứ làm gì có những loại giấy trắng, đẹp và tốt như bây giờ. Đứa nào mà ngay ngày làm diều, nhà có nấu bún nước lèo ăn thì hết ý, nhảy cấng lên mà sung sướng. Vì hồi ấy, bọn tôi đâu có keo dán, chỉ toàn dán diều bằng cơm nguội, nó không bền và đẹp bằng khi được dán bằng bún…
Khâu khó khăn nhất của làm con diều giấy là “căng lèo”, vì nếu không có kinh nghiệm, con diều sẽ không bay hoặc bị quay mòng mòng, chao đảo, niểng qua niểng lại khi gió mạnh. Đứa nào cũng tỉ mẩn, cần thận để “căng lèo” cho con diều mình, đứa nào không tự tin lắm về khoản này, thế nào cũng phải cố gắng năn nỉ, nhờ vả những ai giỏi về “căng lèo”, để dảm bảo con diều mình làm có thể thành công. Phần trả công thường là củ khoai hay trái chuối, không nhiều nhặn gì, nhưng ai cũng vui.
Những con diều giấy ngày ấy, được bọn tôi lấy dây chuối (bẹ chuối khô) làm đuôi, phía cuối đuôi cột thêm một nắm rạ khô cho đẹp.Để có dây gân thả diều, phải xin mẹ kì kèo từ ngày này sang ngày khác,có đứa phải nhịn ăn quà mấy tuần lễ mới đủ tiền mua vài chục thước dây. Khổ vậy nhưng khi cầm được con diều thành phẩm trên tay, ai cũng vui tươi, hớn hở như thể mình đã hoàn thành được một thành tích gì to lớn lắm lắm.
Thời gian thả diều, có khi ban sáng, có lúc ban chiều. Ban sáng, vào những ngày chủ nhật, khoảng tám giờ sáng chúng tôi tập trung dưới bóng mát của những cây dừa trong xóm và mang diều ra thả để khoe nhau, để xem diều ai bay cao hơn. Còn ban chiều, sau khi đi học về quăng cặp, vội xách con diều chạy ù ra khoảng ruộng trống trơ. Thế là thỏa chí, no mắt với những con diều căng gió. Những con diều nào “đủ lực” thì chủ nó có thể cho “bay đêm” (bay suốt đêm). Và cũng có những con diều “trụ” được hai, ba đêm liền. Chủ nhân của nó tha hồ mà kiêu hãnh, tự hào… Chúng tôi đã gửi gắm vào những con diều bao ước mơ, bao mộng tưởng, bao khát vọng về cuộc sống, về tương lai, về ước mơ và hạnh phúc….
Ngày nay, vào mỗi mùa thả diều, tôi vẫn bắt gặp trên bầu trời, những cánh diều đủ sắc màu sặc sỡ, phía dưới trẻ con gọi nhau í ới, không khí vẫn y như ngày nào. Nhưng điều mà trẻ con ngày nay không có được như bọn tôi ngày xưa là cái cảm giác háo hức, phấn khởi khi làm diều, rồi nôn nao, hồi hộp lúc đem diều đi thả và sướng đến rân người khi thấy con diều của chính tay mình làm ra no gió vi vút trên cao. Chắc rằng, cái cảm giác chính tay mình làm ra con diều và thả nó bay lên cao như tôi và bạn bè của ngày xưa sẽ thú vị hơn rất nhiều.
Theo Girly.vn